Thứ Sáu, 17 tháng 10, 2014

Những bài tập vận động sau thay khớp háng

Trong thành công của thay khớp háng (TKH), việc săn sóc, hướng dẫn bệnh nhân luyện tập sau mổ rất quan trọng vì góp phần làm giảm thiểu những biến chứng, giúp bệnh nhân nhanh chóng trở lại tham gia các hoạt động cộng đồng.


Có nhiều bài tập phục hồi chức năng sau phẫu thuật TKH, bài tập sau đây do Viện Hàn lâm các phẫu thuật viên của Hoa Kỳ (AAOS) soạn thảo, bài tập tuy tương đối đơn giản, dễ tập nhưng mang lại hiệu quả rất tốt.

Ngay sau khi phẫu thuật

Những bài tập này quan trọng cho lưu thông tuần hoàn của chi thể và phòng chống tắc mạch. Nó còn làm tăng sức cơ và cải thiện tầm vận động của khớp háng. Bệnh nhân có thể bắt đầu những bài tập này trong phòng bệnh trong ngày đầu tiên sau mổ, khi nằm trên giường trong tư thế hai chân dang nhẹ. Lúc đầu, bệnh nhân sẽ cảm thấy không dễ chịu lắm, nhưng nó giúp đẩy nhanh khả năng phục hồi và làm giảm đau sau mổ.
Gấp duỗi cổ chân: Nhẹ nhàng gấp, duỗi cổ chân. Cứ 5-10 phút làm động tác này vài lần. Động tác này có thể làm ngay sau khi mổ về và tiếp tục làm cho đến khi bệnh nhân hồi phục hoàn toàn.
Xoay cổ chân: Làm 5 lần cho mỗi hướng xoay, 3-4 lần/ngày.
Tập vận động khớp gối: Đưa gót chân về phía mông, gấp gối và để bàn chân trên mặt giường. Không để gối đổ vào trong (làm 10 lần). Nhắc lại 3-4 lần/ngày.
Tập cơ mông: Co cơ mông và giữ trong 5 giây (làm 10 lần). Nhắc lại 3-4 lần/ngày.
Tập dạng chân: Dạng chân tối đa có thể, sau đó khép lại (làm 10 lần), nhưng không được bắt chéo chân. Nhắc lại 3-4 lần/ngày.
Tap Dang Khop Hang
 Tập dạng khớp háng.
Tập cơ tứ đầu đùi:
Bó chặt  đùi. Gồng cơ đùi. Cố gắng để duỗi thẳng gối, giữ trong 5-10 giây. Tập 10 lần/ngày, mỗi lần trong 10 phút (tập cho đến khi thấy mỏi cơ).
Nâng chân: Bó chặt  đùi, để gối thẳng trên giường. Nhấc chân lên khỏi mặt giường khoảng 10-15cm, giữ như vậy trong 5-10 giây. Hạ chân xuống từ từ (tập cho đến khi thấy mỏi cơ).

Những bài tập ở tư thế đứng

Ngày thứ 2-3 sau phẫu thuật, bệnh nhân có thể tập các bài tập ở tư thế đứng. Bệnh nhân có thể nhờ người trợ giúp trong những lần đầu khi bệnh nhân thấy chóng mặt. Khi phục hồi sức khoẻ, họ có thể đứng tập một mình. Khi tập các bài ở tư thế đứng, bệnh nhân phải có điểm tựa vững chắc như thành giường bệnh hoặc tường, tốt nhất luôn có người hỗ trợ đứng bên cạnh.
Nâng gối: Nâng gối lên nhưng không cao quá thắt lưng, giữ trong 2-3 giây sau đó hạ chân xuống (làm 10 lần). Nhắc lại 3-4 lần/ngày.
Tập dạng khớp háng: Giữ cho hông, gối, cổ chân thẳng và cơ thể ở tư thế đứng thẳng. Dạng chân, sau đó hạ chân từ từ cho tới khi bàn chân chạm đất (làm 10 lần). Nhắc lại 3-4 lần/ngày.
Tập duỗi khớp háng: Đưa chân ra sau từ từ. Giữ lưng thẳng. Để chân duỗi trong 2-3 giây, hạ chân xuống sàn từ từ. Làm 10 lần. Nhắc lại 3-4 lần/ngày.
Tap Duoi Khop Hang
 Tập duỗi khớp kháng.

Tập đi

Sau vài ngày, bệnh nhân có thể bắt đầu tập đi những đoạn ngắn trong phòng bệnh và tiến hành làm những động tác nhẹ nhàng.
Tập đi với khung, chịu tải trọng: Đứng thoải mái và chịu tải trọng cơ thể với sự hỗ trợ của khung tập đi hoặc dùng nạng. Đi từng đoạn ngắn một (đưa khung hoặc nạng đi trước, sau đó nhấc chân vừa mổ đi từng bước một sao cho gót chân chạm xuống trước). Khi bước đi, gối thẳng, bàn chân vuông góc và đặt toàn bộ bàn chân xuống sàn. Nên nhớ đặt gót chân xuống trước, sau đó đặt cả bàn chân, rồi nhấc các ngón chân rời sàn sau cùng. Cố gắng tập đi nhẹ nhàng nhất có thể. Dần dần, BN có thể dồn càng nhiều tải trọng của cơ thể lên chân mổ.
Tập đi với gậy hoặc nạng: Khung tập đi thường dùng cho những tuần đầu sau mổ giúp cho bệnh nhân giữ thăng bằng  và tránh bị ngã. Sau đó, bệnh nhân có thể dùng nạng hoặc gậy chống hỗ trợ trong những tuần tiếp theo cho đến khi thấy sức cơ phục hồi và có thể lấy lại được thăng bằng. Nạng và gậy được sử dụng ở bên tay đối diện với khớp bị mổ. BN có thể sử dụng 1 nạng hoặc gậy chống khi đứng và giữ thăng bằng mà không cần khung tập đi (khi đó trọng lượng cơ thể dồn đều trên hai chân và  không cần phải vịn tay trong như khi đang sử dụng khung tập đi).
Chỉ nên bỏ khung, nạng tỳ nén hoàn toàn lên chân thay khớp sau 8 tuần.
Tập lên xuống cầu thang: Khi tập lên xuống cầu thang, yêu cầu cả hai yếu tố: sự dẻo dai và sức mạnh. Đầu tiên, BN cần sự hỗ trợ của tay vịn cầu thang và tập đi từng bước một. Khi lên cầu thang luôn bước chân lành trước, khi xuống bước chân thay khớp trước. BN cần sự hỗ trợ của người khác cho đến khi hồi phục phần lớn sự vận động và sức khoẻ. Không nên tập ở những bậc thang cao quá 7 inches (18cm) và luôn nhớ dùng tay vịn cầu thang để hỗ trợ.
Ngoài bài tập như trên, cần hướng dẫn cho bệnh nhân một số vấn đề quan trọng sau:
Các động tác không nên làm sau phẫu thuật thay khớp háng để phòng sai khớp nhân tạo:
Không gấp khớp háng quá 90 độ, ví dụ: ngồi xổm, bước cầu thang quá cao, ngồi bó gối, cố nhặt 1 vật rơi dưới sàn, khi đang ngồi nếu muốn đứng dậy không nên cúi mình ra phía trước để đứng dậy, nên dùng hai tay để hỗ trợ, nên cố để lưng thẳng...
Không bắt chéo chân thay khớp sang chân lành, ví dụ: ngồi xếp chân “chữ ngũ”, nằm nghiêng không có gối kê giữa hai chân, nằm bắt chéo chân (khuyên bệnh nhân: tốt nhất nằm ngửa, luôn để gối giữa hai đầu gối)...
Tap Gap Co Chan
 Gấp duỗi cổ chân.
Xoay bàn chân vào trong quá mức. Để tránh xoay ngoài khớp nhân tạo.
Ngoài ra, để tránh 3 động tác trên, 1 số vận động không nên làm:
  • Không chơi các môn thể thao như nhảy cao, nhảy xa, bóng đá, bóng chuyền, bóng bàn, cầu lông...
  • Không mang vác vật nặng...
Việc luyện tập, tập vận động sau phẫu thuật thay khớp háng rất quan trọng, góp phần không nhỏ vào thành công chung của phẫu thuật thay khớp. Luyện tập đúng giúp bệnh nhân nhanh hồi phục sức khỏe và phục hồi chức năng khớp háng, sớm trở lại các hoạt động thông thường.
Bệnh nhân được thay khớp háng nhân tạo cần lưu ý rằng: khớp háng nhân tạo dù có tốt đến mấy cũng không thể thay thế hoàn toàn khớp háng bình thường. Vì vậy, trong luyện tập và sinh hoạt, cần lưu ý tuân thủ chặt chẽ các qui trình do nhân viên y tế hướng dẫn, đặc biệt tránh các tư thế có thể gây sai khớp nhân tạo, có như vậy, kết quả phẫu thuật mới thành công thực sự. 

Viêm quanh khớp vai

1. Đại cương.

1.1. Định nghĩa.

Viêm quanh khớp vai (pericapsulitis shoulder) là bao gồm tất cả các trường hợp đau và hạn chế vận động khớp vai do tổn thương phần mềm quanh khớp gồm: gân, cơ, dây chằng, bao khớp, (không do tổn thương phần đầu xương, sụn khớp và màng hoạt dịch).

1.2. Đặc điểm giải phẫu khớp vai.

- Có 5 khớp nhỏ tham gia vào vận động khớp vai là:
+ Khớp vai chính: giữa chỏm xương cánh tay và ổ chảo xương bả.
+ Khớp mỏm cùng cánh tay: gồm cả túi thanh dịch dưới mỏm cùng xương bả và cơ delta.
+ Khớp mỏm cùng - xương đòn.
+ Khớp ức đòn.
+ Bả vai - lồng ngực.
- Khớp xương và bao khớp là tổ chức rất lỏng lẻo, vận động rộng rãi. Phía trên, phía trước và phía sau được tăng cường bởi một số gân cơ tạo nên một bao dịch-gân-cơ:
+ Phía trước có gân cơ ngực lớn và cơ nhị đầu cánh tay.
+ Phía trên có gân cơ trên gai, gân cơ tam đầu cánh tay.
+ Phía sau có gân cơ dưới gai và cơ tròn nhỏ.
Khop Vai Day Chang
Các dây chằng khớp vai
- Khớp vai có liên quan nhiều đến các rễ thần kinh vùng cổ và phần trên của lưng, liên quan đến các hạch giao cảm cổ. Khi có tổn thương kích thích ở vùng đốt sống cổ, vùng trung thất, ở lồng ngực đều có thể gây ra các triệu chứng ở khớp vai. Biểu hiện bằng: viêm gân, viêm và co thắt bao khớp gây đau và hạn chế vận động khớp vai.
Khop Vai Bao Khop Hoat Dich
Bao khớp và hoạt dịch

1.3. Nguyên nhân.

Nguyên nhân gây viêm quanh khớp vai rất phức tạp, đôi khi không rõ:
- Nguyên nhân tại chỗ: chấn thương, vi chấn thương do nghề nghiệp, viêm gân, kéo giãn khớp vai quá mức, hoặc vận động khớp vai nhanh mạnh đột ngột quá mức.
- Nguyên nhân xa: bệnh cột sống cổ (hay gặp, nhất là thoái hóa cột sống cổ, thoát vị đĩa đệm cột sống cổ), bệnh ở phổi, màng phổi, trung thất...

2. Triệu chứng.

Có 3 thể lâm sàng:

2.1. Viêm quanh khớp vai đơn thuần.

- Đau là triệu chứng chính: đau ở mỏm cùng vai, mặt trước và mặt ngoài vai. Đau tăng khi vận động, nhất là khi động tác dạng tay ra ngoài, giơ tay lên trên, và động tác gãi lưng (xoay cánh tay ra trước vào trong).
- Khám tại chỗ không thấy sưng nóng đỏ. Khi ấn vào mỏm cùng vai, mặt trước xương cánh tay, gân cơ nhị đầu trong rãnh cơ nhị đầu cánh tay, gân cơ tam đầu cánh tay thấy đau. Khớp vai không hạn chế vận động, nếu có thì thường nhẹ do phản ứng đau.
- Các xét nghiệm máu và sinh hóa, X quang khớp vai không có gì đặc biệt.
- Diễn biến lành tính, đau giảm dần rồi khỏi trong vài tuần, hay tái phát.

2.2. Viêm quanh khớp vai thể đông cứng (frozen shoulder).

- Đau và hạn chế vận động khớp vai do co cứng bao khớp, diễn biến qua 3 giai đoạn:
+ Giai đoạn đau: đau khớp vai đơn thuần, kéo dài vài tuần.
+ Giai đoạn nghẽn tắc: đau giảm dần, nhưng hạn chế vận động tăng, các động tác đều hạn chế. Khám khớp thấy gần như bình thường, nếu bệnh lâu ngày có thể thấy teo cơ nhẹ do giảm vận động, nhất là nhóm cơ trên gai và cơ dưới gai. Giai đoạn tắc nghẽ kéo dài khá lâu từ vài tháng đến hàng năm.
+ Giai đoạn hồi phục: hạn chế vận động giảm dần rồi không để lại di chứng.
- X quang khớp vai không có gì đặc biệt, chụp khớp vai có bơm thuốc cản quang hoặc bơm khí thấy bao khớp bị co cứng, siêu âm khớp vai có thể thấy đứt hoặc rách dây chằng, bong điểm bám của gân cơ nhưng ít gặp.

2.3. Hội chứng vai - tay.

Bao gồm viêm quanh khớp vai thể nghẽn tắc và rối loạn thần kinh vận mạch ở bàn tay.
- Đau và hạn chế vận động khớp vai kiểu nghẽn tắc. Bàn tay biểu hiện rối loạn thần kinh vận mạch: phù bàn tay lan lên một phần cẳng tay, phù cứng, màu đỏ tía hoặc tím, da lạnh. Đau nhức toàn bộ bàn tay cả ngày và đêm. Móng tay mỏng, giòn, dễ gãy. Các cơ vùng bàn tay teo rõ, vận động bàn tay, ngón tay hạn chế.
- X quang bàn tay thấy mất vôi nặng toàn bộ khối xương cổ tay, bàn tay, ngón tay. Chụp X quang khớp vai thấy bao khớp teo, co thắt.
- Diễn biến kéo dài 6 tháng đến 2 năm, các triệu chứng giảm dần rồi khỏi, nhưng để lại di chứng teo cơ, giảm trương lực cơ và hạn chế vận động bàn tay. Có khoảng 20% tái phát.

3. Điều trị.

3.1. Điều trị nội khoa.

- Sử dụng các thuốc nhóm non-steroid, đường uống hay tiêm toàn thân.
- Phong bế tại chỗ hoặc hạch giao cảm cổ, hạch sao để cắt phản xạ thần kinh.
Tiêm vào khớp vai hydrocortisol acetat.
- Tìm nguyên nhân để điều trị nhất là các nguyên nhân xa.

3.2. Điều trị bằng vật lý.

- Nhiệt nóng tại chỗ: paraffin để chống đau mềm gân, sóng ngắn để chống viêm, siêu âm để chống dính cứng tắc nghẽn.
- Điện di novocain, salicylat để giảm đau chống viêm, INaIK để làm mềm khớp.
- Điện xung để giảm đau.
- Kéo nắn trị liệu: Là phương pháp có hiệu quả tốt, nhất là với thể đông cứng tắc nghẽn. Khám xác định vùng bao khớp co cứng nhiều, kỹ thuật viên vừa kéo giãn khớp vai vừa đẩy chỏm xương cánh tay về cùng phía bao khớp co cứng với lực 7-10kg để làm giãn phần bao khớp co cứng giải phóng tình trạng kẹt khớp. Chú ý khi kéo nắn, bệnh nhân phải không đau mới đúng, nếu đau cần chuyển hướng kéo nắn cho thích hợp.  

3.3. Vận động trị liệu.

Tập vận động khớp vai là phương pháp quan trọng, gồm tập chủ động, thụ động, tập có dụng cụ như dây ròng rọc, thang tường, gậy, chuỳ.
3.3.1. Tập vận động thụ động:
- Tư thế bệnh nhân nằm ngửa:
+ Tập gấp: KTV đứng sát mép giường bên phải bệnh nhân, tay trái giữ cổ tay, tay phải đỡ khuỷu tay bệnh nhân, sau đó từ từ nhẹ nhàng đưa tay bệnh nhân thẳng lên quá đầu, rồi lại từ từ đưa tay ngược lại về vị trí ban đầu (Hình 6.27).
627 Tap Gap Khop Vai
Hình 6.27. Tập gấp khớp vai
+ Tập dạng khép: KTV dùng tay phải đỡ khuỷu tay bệnh nhân, để cẳng tay bệnh nhân nằm trên cẳng tay của mình, tay trái giữ khớp vai bệnh nhân để không cho khớp vai di chuyển lên phía tai bệnh nhân. KTV từ từ đưa cánh tay bệnh nhân di chuyển ngang song song với mặt giường đến vị trí khớp vai 900. Sau đó KTV chuyển tay trái đang giữ khớp vai đến nắm vào cổ tay bệnh nhân, tiếp tục vận động tay lên phía đầu đến hết tầm vận động của khớp vai. Hết động tác, tiến hành đưa tay bệnh nhân ngược về vị trí ban đầu (Hình 6.28).
628 Tap Dang Khep Khop Vai
Hình 6.28. Tập dạng khép khớp vai
+ Tập xoay: đầu tiên KTV vận động khớp vai bệnh nhân dạng 900 như trên rồi đưa tay phải đang đỡ khớp khuỷu về nắm cổ tay bệnh nhân, tay trái đang giữ khớp vai về đỡ dưới khuỷu tay bệnh nhân, sau đó gập khớp khuỷu bệnh nhân đến 900. Tiến hành vận động cẳng tay bệnh nhân đổ về phía đầu (xoay khớp vai ra ngoài) và đổ về phía chân bệnh nhân (xoay khớp vai vào trong) trong khi khớp khuỷu và khớp vai vẫn ở tư thế 90(Hình 6.29).
629 Tap Xoay Khop Vai
Hình 6.29. Tập xoay khớp vai
Tư thế bệnh nhân nằm sấp: tập động tác nâng và duỗi khớp vai (Hình 6.30).
630 Tap Nang Khop Vai
Hình 6.30. Tập nâng khớp vai ở tư thế bệnh nhân nằm sấp
3.3.2. Tập vận động chủ động và tập với dụng cụ.
- Tập chủ động: bệnh nhân tự tập vận động khớp vai theo tầm vận động của khớp gồm các động tác: đưa khớp vai ra trước lên trên, duỗi khớp vai ra sau, dạng khớp vai ra ngang lên trên, khép khớp vai vào trong.
+ Tập động tác xoay ngoài ở tư thế nằm: Bệnh nhân nằm ngửa, với 2 khớp khuỷu để sát thân, hai tay hướng lên trên sau đó ngả ra ngoải để thực hiện động tác xoay ngoài của khớp vai. Động tác có thể thực hiện ở các tư thế khớp vai khép ( vị trí 1), hay vị trí khớp vai dạng ở các mức độ khác nhau  (từ vị trí 2 đến 4) (Hình 6.31).
631 Tap Xoay Ngoai Khop Vai
Hình 6.31. Tập động tác xoay ngoài khớp vai
- Tập với gậy:
Tập động tác gấp: hai tay nắm lấy gậy ở phía trước bụng rồi từ từ đưa gậy ra trước lên trên đến hết tầm (Hình 6.32).
632 Tap Gap Khop Vai Voi Gay
Hình 6.32. Tập gấp khớp vai
633 Tap Xoay Khop Vai Voi Gay
Hình 6.33. Tập xoay ngang khớp vai
634 Tap Duoi Va Xoay Trong Khop Vai Voi Gay
Hình 6.34. Tập duỗi và xoay trong khớp vai
635 Tap Dang Khop Vai Voi Gay
Hình 6.35. Tập dạng khớp vai
637 Tap Vin Thang Tuong
Hình 6.36. Bài tập vịn thang
636 Bai Tap Chong Day
Hình 6.37. Bài tập chống đẩy
638 Tap Voi Rong Roc
Hình 6.38. Tập với ròng rọc
Tập động tác xoay ngang: như tập động tác gấp, nhưng chỉ đưa cánh tay lên 900, rồi làm động tác đưa gậy sang bên tay bệnh (xoay ngang dạng) và bên tay lành (xoay ngang khép) (Hình 6.33).
+ Tập động tác duỗi và xoay trong:hai tay nắm lấy gậy ở phía sau lưng rồi đưa gậy ra sau, kéo gậy lên trên (Hình 6.34).
Tập động tác dạng: tay bên bệnh để dọc thân và nắm lấy đầu dưới của gậy, tay kia vòng ra sau gay nắm lấy đầu trên của gậy rồi kéo ấn đầu gậy trên xuống sao cho thân gậy tỳ lên vai gáy như đòn bẩy và làm cho đầu gậy kia cùng với cánh tay bệnh từ từ nâng lên đến 900(Hình 6.35).
- Tập với sợi dây: tay lành nắm một đầu dây, sợi dây vắt ngang qua vai bên tay lành ra sau lưng, tay bên bệnh nắm lấy đầu kia của sợi dây. Tiến hành dùng tay lành kéo sợi dây xuống làm cho tay bệnh di chuyển lên trên ở phía lưng giống như động tác gãi lưng.
- Tập vận động với thang tường:
+ Tập động tác gấp (vịn thang): bàn tay bệnh nhân ở tay có khớp vai đau nắm chặt vào một bậc thang trên thang tường, người quay về phía thang rồi làm động tác ngồi xuống đến hết tầm vận động của khớp vai và giữ nguyên ít phút rồi đứng lên. Lúc đầu khi ngồi xuống sẽ đau tăng ở khớp vai thì có thể bám ở các bậc thang thấp, sau đó tập bám ở các bậc thang cao dần (Hình 6.36).
+ Tập động tác dạng: cũng làm như trên nhưng người quay ra bên để khớp vai dạng.
+ Tập động tác xoay ngang: bám tay vào bậc thang, thân người quay về phía thang rồi làm động tác xoay dần thân người quay ra bên và ra trước.
Tập động tác duỗi xoay ngoài (bài tập chống đẩy): bệnh nhân đứng quay lưng vào thang, hai tay đưa ra sau nắm lấy một bậc thang, tiến hành ngồi xuống đến hết tầm vận động thì giữ vài giây rồi đứng lên. Lúc đầu khi đứng lên có sự trợ giúp của chân, sau chuyển dần lực chống đến tay để tăng sức cơ. Bài tập tương tự có thể thực hiện với hai tay chống vào cạnh bàn ở phía sau (Hình 6.37).
- Tập với ròng rọc: tập động tác gấp và dạng khớp vai. Thực hiện với một ròng rọc treo ở trên cao, cánh tay bị bệnh đặt thụ động trên ròng rọc và được nâng lên một cách thụ động bởi tay lành bên kia. Ròng rọc phải đặt ở vị trí sau đầu để tay lành sẽ mở rộng góc hoạt động từng chút một của tay bị bệnh (Hình 6.38).
Bài tập đung đưa khớp vai: Bài tập đung đưa thụ động do Codman mô tả là cánh tay cánh tay hoàn toàn thụ động trong trạng thái đung đưa, không có hiện tượng co cơ chủ động ở khớp vai, không có trọng lượng thêm vào ở bàn tay, cũng không có co cơ nào ở bàn tay, cổ tay và cánh tay: bệnh nhân cúi ra trước, thân gấp, cánh tay bị đung đưa không có hiện tượng co cơ khớp ổ chảo. Cơ thể thì đung đưa chủ động, như vậy sẽ tạo nên động tác đụng đưa thụ động của cánh tay sát thân ra trước, ra sau, sang bên và xoay. Cơ thể cần thiết phải có sự trợ giúp bằng cách đặt tay lia trên bàn hoặc ghế tựa. Cánh tay vung thụ động không có vật nặng ở bàn tay vì nó là nguyên nhân gây co cơ cho chi trên và khớp vai (Hình 6.39-a).
639 Tap Dung Dua Khop Vai
Hình 6.39. Bài tập đung đưa khớp vai: a/ thụ động; b/ chủ động với vật nặng   
Bài tập đung đưa chủ động được Codman phát triển thêm để điều trị đau tắc nghẽn khớp vai: Tư thế như bài tập đung đưa thụ động, nhưng ở đây cánh tay được cho phép vung chủ động trong các bình diện, có thể được cầm một vật nặng trong tay và sức nặng cũng được phép tăng dần nhằm kéo giãn khớp vai trong lúc vận động, để đảm bảo an toàn tốt nhất nên sử dụng một cái can nhựa dung tích khoảng 10 lít có thể điều chỉnh trọng lượng bằng cách thêm bớt thể tích nước trong can (Hình 6.39-b).

Thứ Hai, 13 tháng 10, 2014

Tai biến mạch máu não (đột quỵ não)

1. Tổng quan về tai biến mạch máu não

Tai biến mạch máu não (còn gọi là Đột quỵ não) đã, đang và sẽ vẫn là vấn đề thời sự cấp thiết của y học nói chung và phục hồi chức năng nói riêng đối với mọi quốc gia, mọi dân tộc trên thế giới. Tai biến mạch máu não có thể xảy ra đối với tất cả mọi người, không phân biệt nghề nghiệp, giới tính, địa phương, hoàn cảnh kinh tế, xã hội. Tai biến mạch máu não thường xảy ra với những người đang ở trong độ tuổi lao động và những người trên 50 tuổi, họ đã có nhiều cống hiến cho gia đình và cộng đồng, họ cần có sự chăm sóc toàn diện của gia đình và cộng đồng cả về y tế và xã hội. Tai biến mạch máu não là loại bệnh lý thường gặp, hàng năm ở Trung Quốc có khoảng 370 người, Nhật Bản có từ 340 đến 532 người, Việt Nam có từ 288 đến 416 người trong số 100.000 người dân bị tai biến mạch máu não.
Tai biến mạch máu não là loại bệnh có thể gây tử vong nhanh, có tỷ lệ tử vong cao, đứng thứ ba sau ung thư và các bệnh Tim mạch. Nếu không tử vong, tai biến mạch máu não đồng thời cũng là loại bệnh để lại nhiều di chứng nặng nề dẫn đến tàn tật nhiều nhất. Theo Tổ chức Y tế Thế giới và các nhà khoa học nước ngoài có từ 1/3 đến 2/3 người bệnh sống sót sau tai biến mạch máu não để lại di chứng tàn tật vĩnh viễn; 17% người bệnh có từ hai loại di chứng trở lên; 71% người bệnh giảm khả năng lao động; 66% người bệnh không thể trở lại làm việc được vì mất khả năng lao động; 62% người bệnh giảm các hoạt động xã hội; 51% người bệnh bị phụ thuộc về tự chăm sóc bản thân; 38% người bệnh giảm khả năng giao tiếp; 11% người bệnh không tự đi lại; 24% người bệnh phải ở lâu dài trong các cơ sở điều dưỡng hoặc bệnh viện.
Ở Việt Nam nhiều kết quả điều tra và nghiên cứu cho thấy 50% bệnh nhân tai biến mạch máu não sống sót để lại di chứng trong đó 92,96% di chứng về vận động; 68,42 di chứng vừa và nhẹ; 27,69% di chứng nặng; 92% người bệnh liệt nửa người đang sống tại gia đình và cộng đồng vẫn cần luyện tập phục hồi chức năng. Các di chứng do tai biến mạch máu não đặc biệt di chứng về vận động là gánh nặng không chỉ đối với bản thân người bệnh và gia đình họ mà còn ảnh hưởng đến cả cộng đồng và quốc gia mà họ đang sống. Bệnh nhân liệt nửa người do tai biến mạch máu não là người đa tàn tật vì ngoài giảm hoặc mất khả năng vận động, họ còn có nhiều rối loạn chức năng khác kèm theo như rối loạn về ngôn ngữ, rối loạn thị giác, rối loạn cảm giác, rối loạn nhận thức...

2. Nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ của tai biến mạch máu não

Nguyên nhân đứng đầu gây nên tai biến mạch máu não hiện nay là xơ vữa động mạch sau đó là tăng huyết áp rồi đến tắc mạch do cục máu từ tim lên não như trong bệnh hẹp van hai lá, rối loạn nhịp tim, viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn... Nếu chỉ có tăng huyết áp nhưng thành mạch máu còn tốt chưa bị xơ vữa sẽ khó gây nên tai biến mạch máu não, ngược lại nếu thành mạch bị vữa xơ cộng thêm với bệnh tăng huyết áp thì nguy cơ bị tai biến mạch máu não sẽ tăng lên 7 lần.
Tai biến mạch máu não hay gặp nhất ở những người trên 50 tuổi, nam giới bị nhiều nhiều hơn nữ. Tai biến mạch máu não thường xảy ra về mùa lạnh, những tháng chuyển mùa như tháng 2, tháng 3, tháng 10, tháng 11 và những ngày thay đổi thời tiết đột ngột.
Tai biến mạch máu não không phải là bệnh di truyền nhưng có yếu tố gia đình, hay xảy ra với những người bị tăng huyết áp, bệnh tim, đái tháo đường, những người béo phì, uống nhiều rượu, nghiện thuốc lá, những người ít hoạt động thể lực, ít thể dục thể thao.

3. Chẩn đoán và xử trí tai biến mạch máu não

Có hai loại tai biến mạch máu não, đó là chảy máu não và thiếu máu não cục bộ (hay còn gọi là nhồi máu não hoặc lấp mạch não). Thiếu máu não cục bộ thường gặp nhiều hơn chảy máu não. Biểu hiện các triệu chứng của chảy máu não thường đột ngột, nhanh, rầm rộ hơn, nặng lên liên tục trong 12 giờ đầu. Tỷ lệ tử vong do chảy máu não cao hơn nhiều so với thiếu máu não cục bộ.
Chẩn đoán tai biến mạch máu não ở cộng đồng căn cứ vào các triệu chứng lâm sàng qua hỏi và thăm khám: bệnh xảy ra đột ngột và nhanh, tiến triển trong vài giờ, biểu hiện các rối loạn chức năng như đau đầu, nôn, mất ý thức (bất tỉnh), liệt nửa người (liệt một tay và một chân cùng bên), liệt mặt, nói ngọng hoặc không nói được, các khám xét đã loại trừ nguyên nhân chấn thương. Bệnh nhân cần được đưa ngay đến các cơ sở Y tế gần nhất.

4. Phòng ngừa tai biến mạch máu não

Để không xảy ra tai biến mạch máu nãovới các hậu quảnặng nề và lâu dài như đã kể trên thì phòng ngừa là vấn đề vô cùng quan trọng. Kiểm soát được các yếu tố nguy cơ là một trong những khâu quan trọng nhất trong phòng ngừa tai biến mạch máu não, cụ thể là kiểm soát tăng huyết áp, giữ huyết áp luôn ở mức không cao quá 140/90 mmhg bằng nhiều biện pháp khác nhau như giảm cân nếu có béo phì, ăn nhạt, tập thể dục đều đặn, ăn thêm hoa quả, rau tươi và dùng thuốc hạ huyết áp đều đặn.
Bệnh nhân cần phải cai thuốc lá tuyệt đối, ăn ít mỡ động vật, nên ăn dầu thực vật, dùng thuốc điều trị giảm mỡ máu, cai rượu, điều trị và dự phòng đái tháo đường… để làm giảm hoặc loại bỏ tất cả các nguyên nhân có thể gây nên tai biến mạch máu não.

 

5. Liệt nửa người do tai biến mạch máu não

Liệt nửa người là biểu hiện lâm sàng thường gặp nhất của tai biến mạch máu não, trong dân gian người ta thường gọi là bán thân bất toại hoặc liệt bán thân. Liệt nửa người là liệt mặt, liệt chân tay và thân mình cùng một bên. Nếu tổn thương nửa não bên phải bệnh nhân sẽ bị liệt nửa người bên trái, nều tổn thương nửa não bên trái bệnh nhân sẽ bị liệt nửa người bên phải. Ngoài bị liệt về vận động, bệnh nhân cũng có thể bị giảm hoặc mất cảm giác, giảm khả năng nghe, giảm khả năng nhìn ở bên nửa người bị liệt. Cùng với liệt nửa người bệnh nhân có thể bị nói ngọng hoặc không nói được nếu liệt nửa người bên phải, hoặc rối loạn cảm xúc cười khóc vô cớ, quyên nếu liệt nửa người bên trái.
Tư thế di chứng đột quỵĐặc điểm của liệt nửa người là một vài tuần đầu bệnh nhân bị liệt mềm, không cử động được chân tay vì các cơ bị liệt mềm nhẽo, người ta gọi là trương lực cơ bị giảm hoặc mất. Sau một vài tuần từ liệt mềm sẽ dần chuyển thành liệt cứng, các cơ bị co cứng gọi là tăng trương lực cơ làm cho bệnh nhân cử động khó khăn hoặc không cử động được nếu như co cứng quá mức. Sau giai đoạn liệt cứng bệnh nhân có thể thực hiện được một số vận động của tay, chân và thân mình.
Nếu được tập luyện và phục hồi chức năng sớm bệnh nhân có thể thực hiện được nhiều vận động hơn theo các cách mà trước khi bị liệt bệnh nhân đã làm, người ta gọi là theo mẫu vận động bình thường. Thực hiện được nhiều vận động theo mẫu vận động bình thường cũng có nghĩa là bệnh nhân có thể thực hiện được nhiều hoạt động chức năng trong tự chăm sóc bản thân như ăn uống, tắm rửa, vệ sinh cá nhân… tham gia một số hoạt động của gia đình và cộng đồng để tái hòa nhập trở lại với cuộc sống của gia đình và cộng đồng.
Nếu không được tập luyện phục hồi chức năng sớm và đúng cách, những co cứng của tay, chân và thân mình sẽ trở nên nặng hơn, từ co cứng trở thành co rút, người bệnh có thể mất khả năng vận động. Như vậy từ một người bình thường bệnh nhân trở thành người người khuyết tật rồi sau đó là tàn tật, khi đó bệnh nhân trở thành người phụ thuộc hoàn toàn vào người khác trong mọi hoạt động kể cả các hoạt động trong tự chăm sóc bản thân như ăn uống, tắm rửa, vệ sinh cá nhân. Bệnh nhân không những không thể tái hội nhập trở lại với cuộc sống của gia đình và cộng đồng mà còn thực sự trở thành gánh nặng cho gia đình và cộng đồng.

6. Phục hồi chức năng cho bệnh nhân liệt nửa người do tai biến mạch máu não.

Phục hồi chức năng cho bệnh nhân cần được bắt đầu càng sớm càng tốt ngay sau khi bệnh nhân bị tai biến, thực hiện các kỹ thuật phục hồi chức năng khác nhau tùy thuộc vào từng giai đoạn liệt của bệnh nhân. Trong giai đoạn đầu khi còn liệt mềm các kỹ thuật chủ yếu là chăm sóc điều dưỡng để phòng ngừa các biến chứng có thể xảy ra ngay và các thương tật thứ phát sẽ xảy ra sau này.
Các kỹ thuật phục hồi chức năng trong giai đoạn này chủ yếu là giữ cho quần áo, ga trải giường luôn sạch sẽ và khô ráo, lăn trở bệnh nhân từ 2 đến 3 giờ một lần, không để bệnh nhân nằm lâu ở một tư thế, hướng dẫn bệnh nhân tập thở kiểu thở Hoành, vỗ rung lồng ngực và tập ho nếu có nhiều đờm rãi. Cùng với tập lăn trở là các kỹ thuật vị thể, nghĩa là để bệnh nhân nằm ở các vị thế khác nhau theo mẫu phục hồi để phòng ngừa co cứng, kết hợp với các bài tập vận động thụ động nửa người bên liệt do cán bộ y tế, người nhà bệnh nhân, thậm trí có thể hướng dẫn bệnh nhân dùng tay và chân bên lành tập cho bên bị liệt.
Tiếp theo là các kỹ thuật tập luyện vận động tích cực hơn, đó là vận động có trợ giúp, vận động chủ động vì bệnh nhân không thể phục hồi được nếu không có vận động chủ động. Bệnh nhân phải được luyện tập phục hồi ở các vị thế khác nhau như nằm, ngồi, đứng, đi ở bệnh viện cũng như ở nhà, vì có nhiều động tác vận động bệnh nhân có thể làm được khi nằm nhưng chưa chắc đã làm được khi ngồi và khó hoặc không thể làm được khi đứng và đi.

Phục hồi chức năng di chứng liệt nửa người

I. Đại cương.

1. Nguyên tắc PHCN.

- PHCN phải được bắt đầu càng sớm càng tốt, ngay sau khi bệnh nhân bị liệt nửa người, mỗi giai đoạn có những kỹ thuật và biện pháp cụ thể khác nhau.
- Lấy vai trò bệnh nhân là chính, thầy thuốc chỉ hướng dẫn và trợ giúp khi cần thiết.
- Luyện tập từ đơn giản đến phức tạp, từ nhẹ đến nặng, đưa bệnh nhân ra khỏi giường càng sớm càng tốt.
- PHCN cần tiến hành lâu dài, tiếp tục tại nhà và dựa vào cộng đồng.

2. Mục đích PHCN.

- Giúp bệnh nhân tự phục vụ cá nhân.
- Giúp bệnh nhân tự di chuyển (kể cả với dụng cụ trợ giúp).
- Giúp bệnh nhân thích nghi những di chứng còn lại.
- Giúp đỡ bệnh nhân về nghề nghiệp.

3. Phục hồi theo nguyên lý và kỹ thuật Bobath.

3.1. Nguyên lý.
Coi liệt nửa người là bệnh lý do khiếm khuyết thần kinh trung ương trong khi thần kinh ngoại vi và hệ cơ xương khớp không hề bị tổn thương. Do đó lấy phát triển thần kinh là mục tiêu hàng đầu, bằng các biện pháp:
+ Khôi phục lại các mẫu vận động bình thường vốn có trên cơ sở loại bỏ các mẫu vận động bất thường.
+ Sử dụng mẫu ức chế phản xạ thúc đẩy việc học lại các mẫu vận động bình thường, giúp bệnh nhân học lại “cảm giác vận động” chứ không phải là học các động tác làm mạnh cơ, khôi phục khả năng điều khiển các mẫu vận động chọn lọc một cách chủ động.
3.2. Thực hành.
- Phục hồi vận động dựa trên lượng giá đúng chức năng vận động, phát hiện sớm khiếm khuyết trong vận động.
- Chống mẫu co cứng bệnh lý sớm bằng tư thế như nằm ngửa, nằm nghiêng bên liệt và bên lành.
- Vận động thụ động hết tầm bên liệt, hiệp đồng duỗi.
- Tạo thuận trong vận động chủ động, khôi phục “cảm giác vận động”.
- Tập sử dụng động tác tối đa bên liệt (hoạt động trị liệu) trong tự phục vụ các sinh hoạt hàng ngày.
- Phục hồi phản xạ thăng bằng, phản xạ chống ngã.
- Sử dụng các dụng cụ trợ giúp trong PHCN.

4. Tư thế co cứng cơ.

028ph 36
Tư thế Wernck-Mann
Tiến triển liệt nửa người ở bệnh nhân đột quỵ thường trải qua các giai đoạn: đầu tiên là liệt mềm có thể kéo dài vài tuần, sau đó là giai đoạn liệt cứng với tăng trương lực của các cơ gấp ở chi trên và cơ duỗi ở chi dưới tạo nên tư thế đặc trưng, gọi là tư thế Wernick-Mann:
- Đầu nghiêng về bên liệt, mặt quay về bên lành.
- Chi trên: mẫu co cứng gấp.
+ Xương bả vai bị kéo ra sau, đai vai bị đẩy xuống dưới, khớp vai khép xoay vào trong.
+ Khớp khuỷu tay gấp, cẳng tay quay sấp.
+ Khớp cổ tay gấp về phía lòng bàn tay và hơi nghiêng về phía trụ.
+ Ngón tay gấp và khép.
- Thân mình: phía bên liệt bị kéo ra sau và co ngắn lại hơn so với bên lành.
- Chi dưới: mẫu co cứng duỗi.
+ Hông bên liệt bị kéo ra sau và lên trên.
+ Khớp háng duỗi khép và xoay trong.
+ Khớp gối duỗi, khớp cổ chân gấp lòng.
+ Các ngón chân gấp, khép, bàn chân nghiêng trong.
Muốn chống lại tư thế này, phải vận động khớp ngược chiều với xu hướng co cứng như sau:
- Vận động xương bả vai, đai vai lên trên ra trước, dạng và xoay khớp vai ra ngoài.
- Duỗi khớp khuỷu, xoay ngửa cổ tay, duỗi và dạng các ngón tay.
- Làm dài thân mình bên liệt.
- Vận động hông bên liệt xuống dưới ra trước; gấp, dạng và xoay khớp háng ra ngoài.
- Gấp khớp gối và khớp cổ chân, xoay nghiêng bàn chân ra ngoài.
- Duỗi dạng các ngón chân.

II. Một số lượng giá chức năng vận động thường dùng.

1. Thang điểm độc lập chức năng F.I.M (Functional Independence Measure).

- Độc lập:
+ Độc lập hoàn toàn:                                              7 điểm.
+ Độc lập có thích nghi:                                          6 điểm.
- Phụ thuộc:
+ Cần giám sát hướng dẫn:                                     5 điểm.
+ Cần trợ giúp tối thiểu (BN thực hiện được 75%):     4 điểm.
+ Cần trợ giúp trung bình (BN thực hiện được 50%): 3 điểm.
+ Trợ giúp tối đa (BN thực hiện được 25%):              2 điểm.
+ Trợ giúp hoàn toàn (BN thực hiện được 0%):         1 điểm.
Thang điểm FIM trong liệt nửa người thường được đánh giá với các nội dung theo Chedoke – Mc Master Stroke Assessment:
028ph 37
- Phân loại:   0-49 điểm:   Phụ thuộc hoàn toàn.
50-69 điểm:  Phụ thuộc một phần
70-98 điểm:  Độc lập.

2. Đánh giá mức độ thực hiện các sinh hoạt hàng ngày (ADL) theo Barthel.

Mục
Mức độ thực hiện
Điểm chuẩn
Lần 1
Lần 2
Lần 3
Ăn uống
- Tự xúc, gắp thức ăn
- Cần sự giúp đỡ một phần
- Phụ thuộc hoàn toàn
10
5
0



Tắm
- Tự tắm
- Cần sự giúp đỡ
5
0



Kiểm soát đi ngoài
- Tự chủ (buồn đi bết gọi)
- Đôi lúc cần sự giúp đỡ
- Rối loạn thường xuyên (không tự chủ)
10
5
0



Kiểm soát đi tiểu
- Tự chủ khi đi tiểu
- Đôi lúc cần sự giúp đỡ
- Rối loạn thường xuyên (bí, đái dầm)
10
5
0



Chăm sóc bản thân
- Tự rửa mặt, cạo râu, chải đầu
- Cần có sự giúp đỡ
5
0



Thay quần áo
- Tự thay quần áo, đi giày dép
- Cần có sự giúp đỡ một phần
- Phụ thuộc hoàn toàn
10
5
0



Sử dụng toa-let
- Tự đi vệ sinh trong toa-let
- Cần có sự giúp đỡ (cởi-mặc quần, lấy giấy)
- Không sử dụng được toa-let (tại giường)
10
5

0



Di chuyển
- Tự di chuyển được từ giường sang ghế
- Cần giám sát, có sự giúp đỡ
- Cần giúp đỡ nhiều, ngồi được
- Cần sự giúp đỡ hoàn toàn
15
10
5
0



Đi
- Tự đi được 50m
- Đi được 50m có người dắt
- Không bước được phải vịn xe lăn
- Cần sự giúp đỡ hoàn toàn
15
10
5
0



Leo bậc thang
- Tự lên xuống thềm nhà, cầu thang
- Cần sự giúp đỡ (dắt, vịn, nạng)
- Không leo được
10
5
0



Cộng
0-100



- Phân loại:   0-45 điểm:            Phụ thuộc hoàn toàn.
50-85 điểm:           Phụ thuộc một phần
90-100 điểm:         Độc lập

II. PHCN ở giai đoạn điều trị cấp tính.

1. Nguên tắc PHCN.

- PHCN càng sớm càng tốt, ngay sau khi bị đột quỵ.
- Tuỳ tình trạng bệnh nhân để ưu tiên các phương pháp điều trị và PHCN hợp lý.
- Trong khi tiến hành vận chuyển và PHCN chú ý giữ tư thế cố định đầu để tránh nguy cơ tụt kẹt não.

2. Mục đích.

Bên cạnh việc điều trị nội khoa tích cực đưa bệnh nhân thoát khỏi tình trạng phù não, PHCN giai đoạn này cũng rất cần thiết nhằm mục đích:
- Duy trì tầm vận động khớp.
- Phòng loét điểm tỳ.
3. Kỹ thuật.
- Xoa bóp.
- Tập vận động thụ động khớp.
- Phòng loét điểm tỳ: thay đổi tư thế nằm, dùng tấm đệm mềm, đàn hồi, vệ sinh thân thể, chế độ dinh dưỡng hợp lý.

III. PHCN ở giai đoạn di chứng.

1. Đối với bệnh nhân phụ thuộc hoàn toàn.

1.1. Mục đích.
- Phòng chống loét.
- Phòng chống biến chứng co cứng cơ, teo cơ, cứng khớp.
- Tập vận động và hoạt động tự phục vụ.
1.2. Kỹ thuật.
1.2.1. Tư thế để chống mẫu co cứng cơ:
+ Bố trí giường: đặt bệnh nhân nằm bên liệt ở phía ngoài, bên lành ở phía tường, bố trí các vật dụng trong phòng và khi có người thăm đều ở về phía bên liệt.
+ Tư thế bệnh nhân nằm:
* Nằm nghiêng bên liệt: tư thế thân mình nửa ngửa có gối chèn ở lưng, tay liệt khớp vai gấp 900, khớp khuỷu duỗi, chân liệt duỗi, chân lành gấp 900 ở khớp háng và khớp gối.
* Nằm nghiêng bên lành: tay liệt gấp khớp vai 900 có gối đỡ, chân liệt khớp háng và khớp gối gấp cũng có gối đỡ phía dưới.
* Nằm ngửa: đầu có gối đỡ, quay sang bên liệt, vai và tay bên liệt có gối đỡ để đưa khớp vai ra trước, tay liệt có thể duỗi theo thân hoặc duỗi lên quá đầu.
1.2.2. Phòng và chống biến chứng do bất động.
- Thay đổi tư thế nằm: với bệnh nhân hôn mê tiến hành lăn trở bệnh nhân ít nhất mỗi giờ một lần. Hàng ngày cần thay đổi tư thế nằm của bệnh nhân từ nằm nghiêng, nằm sấp, nằm ngửa đến ngồi dậy và đứng lên. Tư thế ngồi và đứng rất quan trọng để giúp lưu thông tuần hoàn máu và bạch huyết. Trong trường hợp bệnh nhân không ngồi và đứng được thì sử dụng các loại giường hay bàn dốc với các góc độ khác nhau.
- Tập thụ động: có thể hướng dẫn người nhà hoặc nhân viên y tế trực tiếp tiến hành tập vận động thụ động cho bệnh nhân bằng các động tác xoa bóp và tập theo tầm vận động của khớp.
- Tập chủ động: Ngoại trừ bệnh nhân hôn mê, còn lại đa số bệnh nhân đều có thể tự tập với mức độ khác nhau. Việc tự tập cần được tiến hành càng sớm càng tốt, tùy theo tình trạng có thể là tự xoa bóp, tự vận động khớp bên lành, tự cử động khớp bên liệt, chi lành đỡ chi liệt vận động, tự lăn trở mình, tập thở. Cần khuyến khích bệnh nhân tự mình hoặc có trợ giúp để ngồi dậy và thoát ly khỏi giường đi lại trong phòng càng sớm càng tốt.
1.2.3. Duy trì tầm vận động khớp.
- Xoa bóp: xoa bóp các chi thể từ ngọn chi đến gốc chi.
- Duy trì tầm vận động thụ động các khớp bằng các bài tập cơ bản (như trong bài “Tập theo tầm vận động khớp”.
- Hướng dẫn bệnh nhân tự tập:
+ Tập tay lành đỡ tay liệt, chân lành đỡ chân liệt.

2. Đối với bệnh nhân phục thuộc một phần.

- BN nên bắt đầu tập ngay càng sớm càng tốt và ngay sau khi bị đột quỵ hay chấn thương. Đôi khi BN cũng có thể bị tổn hại hay các yếu tố khác làm trở ngại việc bắt đầu tập ngay sau tai nạn.
- Nếu ta trì hoãn sự khởi đầu chương trình tập, tức là ta làm cho những chi không bị liệt và thân mình có thì giờ bị yếu dần đi vì không được dùng đến, cũng như tạo thái độ lệ thuộc và tình trạng chán nản ở bệnh nhân.
2.1. Giai đoạn nằm tại giường:
- Trong thời gian nằm trên giường BN cần chú ý tập thụ động để duy trì tầm hoạt động hoàn toàn của tay chân liệt hai lần mỗi ngày. Nếu BN liệt mềm đừng kéo dài xương khớp vai ra mạnh lắm. Khớp xương này dễ bị hư hại khi BN không có sức mạnh của cơ để bảo vệ nó.
- Đặt tư thế đúng: vị trí đúng ở trên giường rất quan trọng cho đến khi BN có thể tự mình chuyển động từ nơi này sang nơi khác.
- Nếu BN có khả năng thay đổi vị trí của mình luôn mà không cần ai giúp thì họ có thể tránh được chỗ da lở và duy trì được sức mạnh thân thể. Ta cần phải tập cho BN biết chuyển động như sau:
+ Nghiêng bên liệt: lấy tay không liệt nắm cạnh giường bên liệt, rồi dùng chân không liệt để tự mình quay.
+ Nghiêng bên không liệt: nắm vững cạnh giường bên ấy với tay không liệt. Trước khi quay BN phải đặt tay liệt lên bụng và dùng chân không liệt luồn dưới cổ chân liệt. Như vậy, chân không liệt sẽ giúp đỡ nâng sức nặng của chân liệt.
+ Ngồi dậy: BN có thể dùng một sợi dây cột ở cuối giường tự kéo mình lên đến vị thế ngồi. Một số BN có thể ngồi dậy trên giường bằng cách quay mình về phía bên không liệt và chống tay không liệt để nâng mình đến vị trí ngồi. Tuy nhiên chúng ta cần phải chú ý đặc biệt đến thăng bằng của người bệnh khi ngồi.
2.1. Giai đoạn đứng dậy:
Khi BN có thể đi đến phòng điều trị, thì việc bắt đầu tập đứng, giữ thăng bằng là vấn đề quan trọng nhất.
Bắt đầu đứng dậy theo cách này:
- BN ngồi trên một cái ghế vững chắc đặt giữa hai trụ song song. Nếu dùng xe lăn thì trước hết phải khóa hai bánh. Tập cho BN biết dùng tay không liệt để nắm chặt vào thanh cây để đứng lên và ngồi xuống.
- Tập cho BN biết đứng và giữ thăng bằng với sức nặng thân thể chi phối đều lên cả hai chân. Ban đầu thì phải dùng tay không liệt nhưng khi đã có tiến bộ một ít, thì không nên dùng tay nữa.
- Khi BN có sức mạnh và thăng bằng đầy đủ thì họ nên bắt đầu tập đi bộ trong hai trụ song song và dùng tay không liệt để giữ cho vững chắc. Từ giai đoạn này tiến tới việc đi bộ ngoài trụ song song với cây chống càng sớm càng tốt.
+ Nếu BN có chân liệt cứng trầm trọng thì đó là vấn đề đặc biệt. Thường thường khi BN đứng lên thì trước hết chân liệt sẽ co lại tại hông và gối. Đó là cử động không tự ý và đôi khi BN không tự biết là chân co rút lại. Loại BN này khi đứng lên thì nhớ phải đợi một chút rồi mới bước đi. Dần dần chân liệt sẽ giãn nghỉ và dang thẳng ra, rồi BN có thể bắt đầu bước đi một cách vững vàng.
+ Nhớ rằng liệt bán thân lúc nào cũng có khuynh hướng ngã về bên liệt. Khi bạn giúp một BN bước đi, lúc nào bạn cũng nên ở bên liệt của BN và chú ý cẩn thận.
2.3. Lên xuống cầu thang:
- Đi lên xuống thang lầu là một cách tập có hiệu quả để thêm sức mạnh và điều hòa cho thân liệt, rèn luyện hô hấp và tim mạch.
Đi lên cầu thang: BN nên bước bàn chân không liệt lên bậc tầng cấp trước và bàn chân liệt sau. Họ nắm chặt lan can với tay không liệt để cho vững chắc. Nếu thang lầu không có lan can thì BN nên cầm cây chống ở bàn tay không liệt. Chống cây lên bậc tầng cấp đồng thời với chân liệt bước lên.
Đi xuống cầu thang: Nếu BN muốn thì có thể đi thụt lùi xuống cầu thang như sau: để bàn chân liệt xuống trước và bàn chân không liệt sau. Dùng lan can hay cây chống đồng thời với chân liệt. Sau khi BN đã có thêm sức mạnh và lòng tự tin thì họ có thể đi tiến xuống. Cách đi không thay đổi: chân liệt xuống trước và chân không liệt xuống sau.
2.4. Cách đi với cây chống, gậy:
Đưa tay không liệt đặt với cây chống tới trước cho tới khi đầu của cây chống đặt trên sàn nhà cách đầu ngón chân không liệt chiều dài của một bàn chân về phía trước và độ 15cm về phía bên. Rồi bàn chân liệt đưa tới trước cho đến khi gót chân liệt ngang với ngón của bàn chân không liệt rồi dời sức nặng thân thể lên trên bàn chân liệt và cây chống. Bàn chân không liệt đi tới trước bàn chân không liệt cho tới khi gót chân ngang với ngón chân liệt.
2.5. Động tác thường ngày:
Đồng thời với tất cả các giai đoạn tập khác ta nên cho BN tự làm các động tác thường ngày (hoạt động trị liệu). Cơ thể người ta liệt bán thân mà vẫn ăn, mặc quần áo, viết chữ… với một cánh tay được. Nếu BN có cánh tay ưu thế bị liệt thì ban đầu họ sẽ làm những động tác này chậm và vụng về. Nhưng rồi BN sẽ tiến bộ hơn khi đã kiên trì tập.

Yếu tố tâm lý:

Với BN liệt bán thân nặng ta có thể đoán trước là BN sẽ có sự thay đổi tâm sinh lý một cách vô cớ. Họ có thể khóc hay cười mà không có lý do. BN thường có những hành động thiếu tự chủ. Thông thường ta không nên để ý đến những hành động lạ đó mà nên chờ cho BN có đủ thì giờ tự trở lại sự bình thường.