Xương bánh chè là một xương vừng lớn nhất cơ thể, nằm trong hệ thống duỗi đầu gối, che chở mặt trước khớp gối.
Theo một nghiên cứu, gãy xương bánh chè chiếm từ 2 – 4 % các trường hợp gãy xương. Việc điều trị gãy xương bánh chè sớm và đúng phương pháp thường cho kết quả tốt.
Gãy xương bánh chè xảy ra trong trường hợp nào?
Những trường hợp sau đây có thể dẫn đến gãy xương bánh chè: chấn thương trực tiếp, hay gặp ngã đập đầu gối xuống nền đất cứng; đập đầu gối vào vật cứng khi gối đang ở tư thế gấp; bị đánh, ném bằng vật cứng trực tiếp vào xương bánh chè.
Chấn thương gián tiếp thì ít gặp hơn, chẳng hạn người tập thể thao co gấp cẳng chân đột ngột. Bị vũ khí sát thương như bom, mìn, đạn bắn…
Vị trí gãy xương bánh chè thường gặp là gãy ngang chính giữa xương, gãy ở bờ trên hoặc bờ dưới cũng hay gặp. Hiếm gặp gãy theo chiều dọc chi hoặc chiều dày xương bánh chè. Di lệch xương: nếu gãy ngang thì hay gặp di lệch giãn cách, do đầu trên xương bánh chè bị kéo lên trên và hơi chếch ra ngoài bởi cơ tứ đầu đùi.
Vị trí gãy xương bánh chè thường gặp là gãy ngang chính giữa xương, gãy ở bờ trên hoặc bờ dưới cũng hay gặp. Hiếm gặp gãy theo chiều dọc chi hoặc chiều dày xương bánh chè. Di lệch xương: nếu gãy ngang thì hay gặp di lệch giãn cách, do đầu trên xương bánh chè bị kéo lên trên và hơi chếch ra ngoài bởi cơ tứ đầu đùi.
Hình ảnh gãy xương bánh chè trên phim Xquang
Triệu chứng gãy xương bánh chè
Khi bị một chấn thương nặng như ngã, va đập vào vật cứng, bị đánh… có thể bị gãy vỡ xương bánh chè với các biểu hiện như sau: đau chói vị trí khớp gối; không nâng chân lên được khỏi mặt ngang nhưng vẫn gấp gối được và đi lại được khi chân duỗi thẳng; chi tổn thương bị biến dạng; ấn có điểm đau chói, có tiếng lạo xạo xương gãy; có dấu hiệu giãn cách xương bánh chè, cử động bất thường; tràn dịch khớp gối; không cử động được động tác duỗi gối. Chụp X-quang thấy xương bánh chè bị gãy.
Bệnh cần phân biệt với các trường hợp: bong gân khớp gối, trường hợp này bệnh nhân vẫn nhấc gót chân lên được khỏi mặt giường.
Tổn thương sụn chêm: bệnh nhân vẫn đi lại được, nhưng có hiện tượng kẹt khớp tái diễn như đang đi tự nhiên khớp gối bị mắc cứng lại, không gấp duỗi được, phải ngồi nghỉ 2-3 phút, xoa bóp tại chỗ sau đó lại đi được bình thường.
Đứt dây chằng chéo: có dấu hiệu đau vùng khớp gối; bất lực vận động khớp gối gần như hoàn toàn; biến dạng khớp gối; dấu hiệu ngăn kéo ( +).
Biến chứng của gãy xương bánh chè gồm: teo cơ tứ đầu đùi, xơ hoá,vôi hoá dây chằng bao khớp. Hạn chế cử động gấp duỗi khớp gối gây ảnh hưởng xấu tới phục hồi chức năng chi tổn thương. Can lệch xương, gây thoái hoá khớp gối. Viêm mủ khớp gối. Khớp giả.
Biến chứng của gãy xương bánh chè gồm: teo cơ tứ đầu đùi, xơ hoá,vôi hoá dây chằng bao khớp. Hạn chế cử động gấp duỗi khớp gối gây ảnh hưởng xấu tới phục hồi chức năng chi tổn thương. Can lệch xương, gây thoái hoá khớp gối. Viêm mủ khớp gối. Khớp giả.
Chữa trị và phòng bệnh
Trường hợp gãy xương bánh chè có di lệch giãn cách dưới 3mm và chênh diện khớp ở mắt sau xương bánh chè dưới 1mm; gãy rạn xương bánh chè. Điều trị bằng cách: chọc hút hết máu tụ trong khớp; bó bột đùi – cổ chân – bàn chân trong tư thế gối duỗi hoàn toàn, thời gian từ 8-10 ngày. Tập vận động theo hướng dẫn của bác sĩ.
Nếu gãy xương bánh chè có giãn cách trên 3mm và gãy ngang thì dùng phương pháp phẫu thuật để điều trị. Kết hợp xương bằng cách xuyên 2 đinh Kirscher song song và buộc néo ép số 8 dựa trên nguyên lý cột trụ của Pauwels.
Phương pháp này có ưu điểm là đơn giản, cố định vững chắc ổ gãy, tập vận động được sớm, càng tập càng nhanh liền xương và thường tập vận động 2 ngày sau mổ. Khâu cố định xương bánh chè bằng chỉ thép: buộc vòng thép quanh chu vi xương của Berger, dùng cho trường hợp gãy xương bánh chè thành nhiều mảnh.
Phòng bệnh bằng cách phối hợp nhiều biện pháp như: khởi động tốt trước khi vận động, luyện tập, lao động nặng.
Dùng băng thun quấn bảo vệ đầu gối trong khi vận động như đá bóng, thi đấu điền kinh, trượt tuyết… Tránh các tư thế gây hại cho khớp gối như: ngồi xổm, quỳ gối hay tập cử tạ mà gánh tạ quá thấp, khuân vác vật nặng… Đi giày dép có đế rộng, độ cao vừa phải khoảng 3cm.
Vai trò của xương bánh chè trong khớp gối
Cấu tạo khớp gối gồm: 3 xương, xương đùi, xương chày và xương bánh chè. Sụn chêm ở giữa mặt khớp lồi cầu đùi – mâm chày có tác dụng giảm sóc khi sụn khớp lồi cầu đùi và mâm chày tiếp xúc khi vận động và giữ cho khớp gối được vững vàng.
Các dây chằng bên trong, bên ngoài và hai dây chằng chéo trước và chéo sau có tác dụng giữ cho khớp gối vững chắc. Dây chằng chéo trước có tác dụng chủ yếu là giữ không cho mâm chày trượt ra trước và dây chằng chéo sau giữ cho mâm chày không bị trượt ra sau.
Dây chằng bên ngoài giúp gối không bị vẹo trong, dây chằng bên trong giúp cho gối không bị vẹo ra ngoài. Toàn bộ khớp gối được bao bọc bởi một lớp màng hoạt dịch có tác dụng tiết ra dịch khớp để bôi trơn trong quá trình cử động.
Theo ThS Trần Ngọc Hương – Sức khỏe & Đời sống
Nguyên tắc tập phục hồi chức năng cho bệnh nhân sau mổ vỡ xương bánh chè:
Nguyên tắc là phải tập từ nhẹ đến nặng để cho khớp và cơ thể thích nghi dần. Bắt đầu bằng tập gấp và duỗi khớp gối ở tư thế nằm ngửa trên giường hoặc trên sàn nhà, sau đó ở tư thế ngồi và đứng. Khi khớp gối đã co, duỗi được bình thường sẽ tiếp tục tập làm mạnh các cơ của chân và làm mạnh khớp gối bằng các bài tập có kháng trở, tức là có một lực nào đó kháng cản lại động tác gấp và duỗi của khớp gối để người bệnh phải gắng sức thực hiện động tác (như người tập tạ) như vậy sẽ làm cho các cơ, dây chằng của khớp khỏe lên giúp cho khớp trở lại vận động bình thường. Lực cản đó có thể là túi cát, dây cao su, tạ tập …phù hợp. Trong quá trình tập bạn lấy khớp gối bên lành làm chuẩn để đối chiếu xem tập có kết quả nhiều hay ít…Thời gian phải tập tùy thuộc vào mức độ hạn chế hiện nay, nói chung là tập đến khi nào khớp và chân bên đó trở lai vận động bình thường như khớp gối và chân bên lành, bệnh nhân không có khó khăn gì trong sinh hoạt hàng ngày và công việc mà bệnh nhân đang làm.
Nguyên tắc là phải tập từ nhẹ đến nặng để cho khớp và cơ thể thích nghi dần. Bắt đầu bằng tập gấp và duỗi khớp gối ở tư thế nằm ngửa trên giường hoặc trên sàn nhà, sau đó ở tư thế ngồi và đứng. Khi khớp gối đã co, duỗi được bình thường sẽ tiếp tục tập làm mạnh các cơ của chân và làm mạnh khớp gối bằng các bài tập có kháng trở, tức là có một lực nào đó kháng cản lại động tác gấp và duỗi của khớp gối để người bệnh phải gắng sức thực hiện động tác (như người tập tạ) như vậy sẽ làm cho các cơ, dây chằng của khớp khỏe lên giúp cho khớp trở lại vận động bình thường. Lực cản đó có thể là túi cát, dây cao su, tạ tập …phù hợp. Trong quá trình tập bạn lấy khớp gối bên lành làm chuẩn để đối chiếu xem tập có kết quả nhiều hay ít…Thời gian phải tập tùy thuộc vào mức độ hạn chế hiện nay, nói chung là tập đến khi nào khớp và chân bên đó trở lai vận động bình thường như khớp gối và chân bên lành, bệnh nhân không có khó khăn gì trong sinh hoạt hàng ngày và công việc mà bệnh nhân đang làm.
Một số hình ảnh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét